Thông điệp Cửu Long.
Rồng
là con vật không có thật. Ai cũng biết vậy. Mà ai cũng có thể nói về
rồng vì đấy là con vật thần thoại phổ biến trong các tôn giáo hay văn
hóa từ Á sang Âu, từ Đông qua Tây sang tới Mỹ. Riêng có người Việt ta,
đón mừng một năm Thìn thì mình có thể nói tới... chín con rồng lận!
Từ
truyện tích "con tiên cháu rồng", rồng là biểu tượng của tổ tiên – với
hai đức tính là trí tuệ và sự dũng mãnh – còn tiên là biểu hiệu của từ
tâm, lòng nhân ái. Chuyện ấy, chúng ta mượn của văn hoá Trung Hoa, mình
nói ngàn năm cũng chưa hết.
Người ta thường tin rằng rồng là loài lưỡng cư – hay lưỡng thê – sinh vật có thể sống với đất và nước. Riêng có rồng của ta lại là loài... đa thê. Khác với hình tượng rồng của Trung Hoa chỉ vần vũ trên mây, rồng Việt Nam, với đầy đủ năm móng, được trình bày với hoa văn tượng trưng cho cả mây và nước. Từ đất nước vọt lên trời!
Trong thế kỷ 21, Việt Nam cũng mơ có nền kinh tế của con rồng, là bay lên ngang tầm các nước tân hưng châu Á. Xin hãy đợi đã.
Nhưng vì sao lại đòi nói đến chín con rồng? Xin hãy đợi đã!
***
Con người ta thường mượn những gì thấy trước mắt để diễn tả những gì... không hiểu được.
Con
rồng xuất hiện như vậy, với hình ảnh của những giống vật có thật. Có
thể là con cá nước ngọt, cá sấu, đã cho ta hình tượng giao long và
truyện tích về kinh đô Thăng Long. Có thể là sinh vật dưới biển, như
loài rắn biển cho ta truyện thuồng luồng và tục xâm mình. Cũng có thể là
loài bò sát có vảy, như kỳ đà, rồng đất hay giống khủng long mà hình
ảnh còn rơi rớt lại từ thời tiền sử.
Vẽ
rắn thêm chân, chắp cánh lên lưng cá, điểm cặp sừng hươu, châm bờm sư
tử, cho rắn phun lửa bay lên trời thành linh vật thần kỳ. Con vật ấy trở
thành phi phàm, siêu khoa học và kết tụ những mơ ước hoặc ám ảnh vô
cùng của chúng ta. Các tôn giáo cũng từ đó quy nạp linh vật thành biểu
tượng của thiện và ác. Thiện như con rồng của Ấn giáo và Phật giáo, như
rồng của thổ dân Nam Mỹ, ác là con rồng Tây phương....
Đấy
là sản phẩm của cái tâm, dựa trên giới hạn của cái trí. Và phóng dội
niềm khâm phục hoặc nỗi e sợ cái dũng vượt quá sức mạnh của con người.
Khốn
nỗi, các Hoàng đế Trung Hoa bèn... quốc hữu hóa con rồng, lấy làm biểu
tượng của mình. Đã thế, còn cho mình duy nhất có năm móng. Rồng của dân
gian thì chỉ được bốn móng thôi. Hèn chi mới hóa long đong.
Sau này, từ năm 1958 rồi, Tây phương có môn "rồng học", "dracology" hay "dragonologie", để nghiên cứu về con rồng trong các nền văn hoá thế giới.
Mà
lý thú làm sao khi ta thấy mô hình rồng trong môn "rồng học" của Nga,
cứ tưởng như loài khủng long có cánh thời xưa nhưng lại tương tự như một
phi cơ không người lái thời nay của Mỹ. Hoa Kỳ có một hỗn danh cho loại
võ khí siêu hiện đại này là "dragonfly".
Nếu có dịch là "chuồn chuồn" thì e rằng... chưa tới! Nhân đây, độc giả nên nhớ đến biệt danh của máy bay thám báo U2
ngày xưa là "Dragonlady", hoặc loại trinh sát tự động ngày nay là RQ-14 có tên là "Dragon Eye". Nếu dịch ra Long Nữ hay Mắt Rồng thì có lẽ sai bét.
Cho hay, khoa học cũng biết trả thù và mượn lại thần thoại để tô điểm cho sự uy dũng của mình!
Rồng Mỹ
Con rồng theo nét vẽ của bộ môn "rồng học" của Nga -
Trông như một "máy bay không người lái" kiểu hiện đại của Mỹ!
***
Từ
khi tóc còn để chỏm, bài địa lý đầu đời của chúng ta dạy rằng Việt Nam
nằm trên vùng giao lưu giữa hai nền văn hoá lớn của châu Á là Ấn Độ và
Trung Hoa. Bán đảo ta gọi là Đông Dương mà có tên Ấn-Hoa – Indo China –
thì cũng từ cái lẽ đó.
Những
di chỉ còn lại – chưa bị phủ lấp hoặc tẩu tán – đều nói đến sự hiện hữu
của các sắc dân bản địa không thuộc Trung Hoa. Mà các sắc dân Đa đảo
hay Nam đảo ấy còn sớm du nhập văn hoá Ấn Độ, kể cả Phật giáo, trước khi
biết thế nào là Thánh hiền phương Bắc. Chỉ vì từ thời xưa rồi, luồng
giao lưu hàng hải khiến miền Nam nước ta - "Đàng Trong" là tên gọi sau
này - đã tiếp nhận tư tưởng và hàng hóa từ những nơi rất xa, khi mà văn
hoá Trung Hoa vẫn chỉ có sắc thái đại lục và chưa tràn xuống nước Nam để
lánh nạn cường Tần.
Chúng
ta quên mất lịch sử khi chỉ nhìn thấy ảnh hưởng Nam tiến của văn hoá
Trung Hoa làm nhiều người nghĩ rằng Việt Nam chỉ là hậu duệ hay chư hầu
của phương Bắc. Người ta quên mất phần đóng góp của nhiều sắc thái văn
hoá khác mà tổ tiên đã tiếp nhận từ miền Nam. Sau này còn học thói Trung
Hoa mà gọi đó là man mọi! Chúng ta không hát và múa như người Hoa chính
là nhờ Chiêm Thành....
Thế
rồi, việc nước ta phát triển xuống miền Nam, chính thức từ năm 1558,
đưa đến hai thay đổi lớn: 1) phân nửa của quốc gia mặc nhiên ra khỏi quỹ
đạo Trung Hoa, và 2) tiếp nhận những đóng góp mới của "dị tộc", từ dân
Chàm đến Java, Mã Lai, để thành cường quốc Đông Nam Á. Chúng ta quên hẳn
kết quả bất ngờ đó của thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Khi
nước nhà được thống nhất năm 1802, thì Việt Nam lại tự trôi vào trật tự
Trung Hoa. Đó là thành tích của nhà Nguyễn Sơ, trước tiên là của vua
Gia Long. Ông có công thống nhất đất nước, mà lại thống nhất theo quy củ
văn hoá và chính trị của Mãn Thanh!
Đời
sau, đời nay, Hoàng thành Thăng Long cổ xưa đã xuất hiện mấy năm - chớp
nhoáng thôi. Dù chỉ như ánh chớp, di sản bị chôn vùi dưới mấy tầng văn hoá, kiến
trúc và mỹ thuật cũng giúp ta kiểm chứng được những gì đã thấy trên mặt
đất, trụ in kinh trong các ngôi chùa cổ chẳng hạn. Đó là phần đóng góp
của văn hoá Ấn Độ.
Sau
ngàn năm Bắc thuộc rồi ngàn năm tự Hán hóa vì hệ thống tập quyền của
triều đình và độc quyền tư tưởng của Nho thần, chúng ta mặc nhiên xóa
dần những yếu tố Ấn Độ và cả di sản Ấn Độ từ các nước Đông Nam Á.
Trong
một giai đoạn quá dài, con rồng Việt Nam tự nhắm một mắt mà trôi vào
mây mù Trung Hoa. Rồi quên cả sông lạch nước non, mất luôn đường ra
biển. Năm Nhâm Thìn này có khi là năm thức tỉnh, mở mắt.
Chỉ
vì thời sự vừa nhắc nhở rằng Ấn Độ đã trở về Đông hải, đã kết hợp với
Nhật Bản và Hoa Kỳ, để đảm bảo quyền tự do giao lưu ngoài biển. Khi Việt
Nam nói chuyện hợp tác với Ấn Độ về quân sự, chúng ta không nhắc đến
chuyện "thỉnh kinh Thiên trúc" hay liên kết với đảng Quốc Đại.
Từ
một quốc gia đa chủng, đa văn hoá, đa nguyên và dân chủ, nền dân chủ
lớn nhất địa cầu với hơn một tỷ dân, ngưởi ta có thể học lại nhiều thứ.
Học lại vì là nhiều điều đã biết mà lại quên!
***
Trở
lại lịch sử, khi Nguyễn Hoàng đi vào Thuận Hóa từ năm 1558, với con
cháu anh hùng là các đời chúa Nguyễn, Việt Nam thật sự bung ra khỏi châu
thổ sông Hồng sông Mã. Và tiếp nhận rất nhiều kiến thức mới trên một
vùng địa dư rộng gấp đôi, thong dong buôn bán và giao tiếp bình đẳng với
các nước. Sau này, một người kết hợp được những yếu tố hiện đại ấy
chính là Nguyễn Huệ, một nhân vật trưởng thành từ vùng đất mới và không
hề khiếp sợ phương Bắc, dù là Bắc Hà hay Bắc Kinh.
Thời
Tây Sơn, chiến công của tổ tiên không chỉ có các trận thủy chiến lừng
danh lịch sử ở trên sông mà còn là hải chiến, ở ngoài biển, từ cửa Thị
Nại qua các hải đảo Phú Quốc, Cổ Long đến Vịnh Xiêm La. Địa dư hình thể -
vì phân nửa miền Nam của chữ S đã đưa ra ta ra biến lớn chứ không bị
khép trong Vịnh Bắc bộ – và tinh thần khai phóng của dân miền Nam có thể
giải thích hiện tượng đó.
Thế
rồi, đúng 300 năm sau khi Nguyễn Hoàng mở nước – và 10 năm sau Chiến
thắng Đống Đa – Việt Nam lại bị ngoại bang khuất phục vào năm 1858, với
việc ba tỉnh miền Đông của Nam kỳ Lục tỉnh rơi vào tay quân Pháp. Rồi
mất nốt ba tỉnh còn lại vào năm 1862, 60 năm sau khi Gia Long thống nhất
đất nước. Mười năm sau đó, một dúm quân Pháp tiến ra Bắc, rồi tước đoạt
luôn chủ quyền nước Nam, vào năm 1884, với "Hoà ước" Giáp Thân.
Ách
Pháp thuộc chỉ thực sự kết thúc với Hiệp định Genève năm 1954 - đúng 70
năm sau - và lại mở ra cảnh phân chia Nam-Bắc cho đến năm 1975. Sau đó
là khủng hoảng và tụt hậu trên một lãnh thổ thống nhất. Chuyện rồng cọp
gì thì cũng chỉ là sừng thỏ lông rùa, bất khả về thực tế.
Một
trong những nguyên nhân khiến quân Pháp vào Nam rồi mới ra Bắc chính là
sự hiểu lầm về địa dư! Y như triều đình Pháp sau này, thương nhân và
bọn tứ chiếng Phú Lãng Sa cứ tưởng có thể ngược dòng Cửu Long mà vào tới
Vân Nam và giao thương với các tỉnh nội địa của Trung Quốc. Khi thấy bị
nghẽn, họ mới tiến vào châu thổ sông Hồng!
Ngẫm
lại thì đi sau Đế quốc Anh nên tới Ấn Độ rồi Đông Á khá trễ, lại bị Đức
khuất phục vào năm 1870, vậy mà Đế quốc Pháp vẫn làm chủ nước Nam trong
gần một thế kỷ. Chỉ vì nước ta lụn bại dần trong nội loạn dưới vòng Hán
hóa độc chuyên và lạc hậu của triều Nguyễn. Khi bị giặc Pháp tấn công,
triều đình còn muốn tựa vào Bắc Kinh lẫn thổ phỉ Tầu.
***
Bây giờ mới đến chuyện chín con rồng....
Từ trước khi có Hiệp định Genève chia đôi đất nước bằng con sông Bến Hải vào năm 1954, một nghệ sĩ đã ví ba dòng sông nước Nam như ba cô gái. Và mơ ngày hợp nhất ngoài đại dương. Đó là nhạc sĩ Phạm Đình Chương trong bài "Hội Trùng Dương" mà ai cũng biết, cũng nhớ:
Ô hò ơi! Ra biển khơi. Trùng Dương...
Ba chị em là ba miền
Nhưng tình thương đã nối liền
Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên
Hẹn nhau.
Pha hòa sóng lan bốn phương trời,
Đem tự do tranh đấu bao người,
Cho quê hương ấm no muôn đời
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt cùng hô
Dựng mùa vinh quang hứa đời tự do.
Cầm bản Hội Trùng Dương,
thấy in ở bìa lưng: "K.D. Số 559 T.X.B. ngày 29-7-54" do nhà An Phú
xuất bản tại Sàigon, với chi tiết "Tổng phát hành Bắc Việt: Nhà sách
A.B.C 52 Hàng Gai Hà Nội", chúng ta bỗng bồi hồi: Hoài Bắc Phạm Đình
Chương soạn hợp khúc này như một giấc mơ đoàn tụ từ trước khi có chuyện
chia ly! Lý do là hiệp định Genève được ký ngày 20 Tháng Bảy năm đó.
Sau đấy, mùa Xuân 1960, Phạm Duy hoàn thành giấc mơ ấp ủ từ 1954, bỏ dở trong các năm 1956-1958, là ra mắt Trường ca "Con Đường Cái Quan".
Y như trong "Hội Trùng Dương", đoạn cuối của ca khúc cũng là tiếng sông Cửu Long:
Cửu Long Giang! Gió về vui như sóng sông
Uốn quanh như chín con rồng ôm chặt đứa con
Và kết thúc với đoạn hoan ca nghe như lời tiên tri ở câu cuối" "con đường thế giới xa xôi":
Đường đi đã tới! Lòng dân đã nối!
Người tạm dừng bước chân vui, người ơi!
Người mơ ước tới: đường tan ranh giới
Để người được mãi
Đi trong một duyên tình dài.
Con đường thế giới xa xôi,
Trong lòng dân chúng nơi nơi....
Trực giác của người nghệ sĩ thường nhìn ra nhiều chuyện trước những kẻ phàm tục là chúng ta.
Cả
hai nhạc sĩ tài ba đều thấy rằng người người đều sẽ xuôi Nam. Bắc kỳ di
cư cũ mới gì, từ Nguyễn Hoàng, Đào Duy Từ hay "năm tư", "bảy lăm" gì
thì ai ai cũng muốn xoá tan ranh giới để cùng gặp nhau bên trời biển
Đông thắm duyên. Ngày Xuân, ai mà chẳng muốn một cuộc hội ngộ để dựng
mùa vinh quang như vậy?
Nhưng thực tế là Đông hải đã nổi sóng "ngư chính" của Trung Quốc. Và Cửu Long Giang ở sau lưng thì bị cạn dòng.
Đấy là lúc mình nhớ đến Lê Thương và ba bài "Hòn Vọng Phu" bất hủ. Bài số hai, "Ai Xuôi Vạn Lý" có nhắc đến chín con rồng của Cửu Long như một ẩn dụ tiên báo:
Chín con long thật lớn
Muốn đem tin tới nàng
Núi ngăn không được xuống
Chúng kêu ca dưới ngàn...
Đấy là lúc ta mở lại tấm bản đồ.
Bắt
nguồn từ Tây Tạng, trên cao độ hơn 5.000 thước của rặng Hy Mã Lạp Sơn,
sông Mekong chảy qua gần 5.000 cây số, tỏa nhánh trên mấy trăm ngàn cây
số vuông của năm nước là Trung Hoa, Miến Điện, Lào, Thái Lan và Cam Bốt,
trước khi trở thành dòng Cửu Long hùng vĩ mà hiền hòa của Việt Nam. Bài
địa dư đầu đời của chúng ta nghi như vậy. Một cách thi vị mà thực tế
không kém, gốc từ Tây Tạng, chín con rồng này tuôn ra Đông hải và đang
nuôi sống 20 triệu người Việt Nam dưới hạ nguồn.
Nuôi sống hay giết chết....
Chỉ
vì trên thượng nguồn, con sông bị Trung Quốc lạm thác để giải quyết nhu
cầu của họ, nhân tiện khống chế các nước họ coi là hạ lưu ở bên dưới!
Mọi
chuyện khởi đầu từ năm 1949: Trung Quốc khống chế Tân Cương, chiếm đoạt
Tây Tạng rồi sau này xây đập trên thượng nguồn Mekong để có thể trấn
nước 60 triệu dân dưới hạ nguồn. Hoặc cho hạn hán vào mùa mưa. Một phần
ba dân số 60 triệu đó là người Việt, những người sống trên vùng đồng
bằng Cửu Long!
Nghĩa
là khi chúng ta mơ ước trùng phùng để xây đời tự do ở bên dưới, thì từ
đầu nguồn, chín con rồng của chúng ta đã bị bó gân, khoét ruột....
***
Từ
năm 1957, cùng Ủy ban Kinh tế ECAFE (sau này là ESCAP) của Liên hiệp
quốc, bốn nước Đông Dương là Việt, Mên, Lào, Thái đã lập ra Ủy ban
Mekong để cùng nghiên cứu và khai thác nguồn sống sinh tử này. Một nước
thứ tư không có mặt, là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội! Cái xứ không
phải là cộng hoà mà cũng chẳng có dân chủ đang bận chuyện khác: giải
phóng miền Nam để hoàn thành cách mạng vô sản trên toàn cõi Đông Dương!
Rồi
chinh chiến Đông Dương khiến Ủy ban Mekong quay trong chân không, và bị
tê liệt vì chính trị trong hai chục năm sau 1975. Khi Ủy ban này được
hồi sinh thì cũng là lúc Trung Quốc xen lấn, trong nghĩa đen.
Tháng
Tư năm 1995, đúng 20 năm sau , Việt
Nam và Thái Lan tổ chức màn trình diễn mừng lễ ký kết Hiệp định Mekong:
một giang thuyền sẽ nối liền hai nước, với sự cổ võ của hai xứ Miên Lào ở
giữa. Tuyệt chiêu!
Nhưng
chiếc du thuyền "hoành tráng" này bị kẹt giữa dòng nước cạn: trên đầu
nguồn, Bắc Kinh cho bơm nước vào hồ chứa của đập Mạn Loan. Thiên triều
đỏ chắc cũng biết chơi chữ. Mạn Loan là cho Loạn Man, các dị tộc man di
mọi rợ ở miền Nam phải biết có trên có dưới chứ!
Nhắc
lại chuyện đó, ta mới mở ra cái nan quạt như xương rồng: Bắc Kinh muốn
gồm thâu lục quốc. Chiếm đóng Tây Tạng rồi khuynh đảo năm nước Mekong là
Miến, Lào, Miên, Thái, Việt!
Nhưng thiên bất dung gian.
Trên
thượng nguồn, đập Tam Hiệp và một dẫy công trình thủy lợi hay thủy điện
vĩ đại của Trung Quốc đã trở thành những trái bom nguyên tử nổ chậm.
Chẳng có phóng xạ mà cũng gây đại họa.
Tại
Tân Cương, mối lo về phong trào Hồi giáo ly khai không giảm mà tăng,
cùng nội loạn ở nhiều tỉnh. Từ Tứ Xuyên về Đặc khu Tự trị Tây Tạng, là
lãnh thổ Tây Tạng, phong trào chống đối lan rộng với tăng ni xuống đường
biểu tình, tự thiêu. Sáu triệu dân Mông Cổ ở Nội Mông ngóng cổ nhìn
sang Cộng hoà Mông Cổ ở phía Bắc . Việc Cộng hoà Mông
Cổ bất chấp lời phản đối của Bắc Kinh mà đón chào đức Đạt Lai Lạt Ma của
Tây Tạng là tín hiệu khó lầm cho người Mông Cổ, xưa nay vẫn theo Lạt ma
giáo, Phật giáo Tây Tạng....
Từ
Ấn Độ qua tới Dharamsala của Chính quyền Lưu vong Tây Tạng – nay đã có
một Thủ tướng mới là một học giả của Harvard – vào đến đất Tầu, dân
chúng đều loan truyền lời tiên tri của Chư Thiên đã nhập vào một bé gái
người Ấn, Achary Sambhavi: năm 2012 này Trung Quốc sẽ có dân chủ và Tây
Tạng được giải phóng!
Vốn
đã quen thuật tuyên truyền qua sấm ký và đồng dao, các đấng Thiên tử đỏ
bỗng thấy chột dạ về cái lẽ hư thực của thánh thần. Và e ngại cái
chuyện lộng giả thành chân!
Có
cái gì đó rất lạ đang làm Bắc Kinh rung chuyển, ngoài trăm mối tơ vò về
kinh tế, nào suy trầm, lạm phát, nào nợ nần, bong bóng đầu tư bị bể, tư
doanh phá sản, v.v... Đến cuối năm, dân Ô Khảm của thị trấn Lục Phong
tại Quảng Đông biểu tình phản đối nạn cướp đất. Khi bị đàn áp, họ nổi
dậy đánh đuổi đảng bộ và chính quyền địa phương - để lập ra... công xã
tự trị!
Bên
trong đã như vậy, bên ngoài thì Ấn Độ kết hợp với Nhật Bản, Hoa Kỳ
tuyên bố trở lại Đông Á và cộng tác về quân sự với Indonesia và Úc, lên
tiếng bênh vực Philippines... Quái đản nhất, một xứ phên giậu của Trung
Quốc là Miến Điện bỗng dưng nghĩ lại.
Lãnh
đạo xứ này cho phép tổ chức bầu cử và hủy bỏ một dự án thủy điện trị
giá hơn sáu tỷ đã ký với doanh nghiệp Trung Quốc. Rồi Ngoại trưởng Mỹ
liên tục hội họp với Ngoại trưởng của năm nước trong Ủy ban Tiểu vùng
Mekong.
Từ thượng nguồn Tây Tạng xuống tới sông Cửu Long, hình như con rồng đã quậy, làm mặt rồng tại Bắc Kinh bỗng xám ngoét!
***
Đầu năm ôn cố tri tân, chúng ta khởi sự từ chuyện tiên rồng và tình cảm gắn bó của từng người đến nơi chôn rau cắt rốn. Ta theo dõi bước chân của cả trăm thế hệ và nhiều thế kỷ để thoát khỏi sự tù hãm mà tiến tới vùng đất của khai phóng tư tưởng. Dân ta ca tụng sông Hồng anh dũng, sông Hương thơ mộng và Cửu Long hiền hòa dẫn mình đến thịnh vượng và giao lưu cùng thế giới.... Cả một phần đời của chúng ta đã được nuôi sống trong những giấc mơ đó.
Cho đến khi Cửu Long cạn dòng và Đông hải bị khóa, chín con long không thể kêu ca mãi dưới ngàn mà có lúc vùng dậy. Nhâm Thìn có thể báo hiệu chuyện đó.
TG : N.X.Nghĩa.
HR Man ST & chỉnh sửa
Category:
BỔ ÍCH-THÚ VỊ
Comments
Vài website thú vị
************
Số bài viết theo năm tháng & bài mới nhất.
-
▼
2013
(
157
)
-
▼
tháng 1
(
35
)
-
▼
thg 1 14
(
33
)
- Tranh luận / Âm nhạc/ Tuổi thơ
- Cái yếu / Thành công / Người mẹ
- Sự hy sinh / Sai lầm
- Láng giềng / Dùng tiền / Hy vọng
- Lừa dối / Nhỏ bé
- Thật thà / Tài cán
- Ôn hòa / Phụ nữ / Người cao cả
- Thành công / Ước vọng / Ký ức
- Khiêm tốn / Chối từ / Nhân từ
- $$ / Tự do / Tốt hơn
- Trì hoãn / Hiểu biết / Cay đắng
- Chúng ta / Suy nghĩ / Thời gian *
- Có tự / Kiến thức/ Hạt giống
- Khi tự cho / Sự chỉ trích
- Khi tha thứ / Sự thật / Sự suy tư
- Mỗi người / Cái hấp dẫn / Ngày lãng phí
- Thiếu kỹ lưỡng / Sự cảm mến / Những ai chỉ biết
- Sự đau khổ / Biết quên / Sự dối trá
- Sự yêu chuộng / Tôi biết có
- Không có ngày mai / Phước thay / Khi một mình
- Môt người / Những gì / hãy làm tròn.
- JC. Hare / Voltaire/ S Gosson
- Thông điệp Cửu Long.
- Học để làm gì?
- Nhữn bộ mặt của M.Jacson
- Tình yêu & Đạo Phật.
- Tâm tĩnh lặng.
- Chúng ta đang xin người khác rất nhiều.
- Quán tính của tư duy.
- Để hôn nhân gia đình bền vững.
- Giọng nói & khả năng chiến đấu.
- Giao tiếp khó hay dễ ?
- Hai bài phỏng vấn NS Phạm Duy của BBC
-
▼
thg 1 14
(
33
)
-
▼
tháng 1
(
35
)