Một người giúp việc gần như trọn đời với
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và từ năm 1949 đến 1969, luôn ở bên cạnh Phạm
Văn Đồng và Hồ Chí Minh – ông Trần Việt Phương – nói rằng: “Trong lịch
sử nghìn năm giữ nước của Việt Nam, chưa có thời đại nào ngây thơ, mất
cảnh giác với Trung Quốc như thời đại Hồ Chí Minh”. Sở dĩ có sự “mất
cảnh giác” này, theo ông Việt Phương là vì, Hà Nội đã “Có quan niệm
ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan niệm ngây thơ từ
người cao nhất của ta chứ không phải ở cấp độ vừa”.
Trong hồi ký được công bố chính
thức trên báo Nhân Dân [số ra ngày 25-3-1984], thư ký kiêm phụ
trách báo chí của đoàn Việt Nam trong Hội nghị Geneva, ông
Nguyễn Thành Lê, cho rằng “Bắc Kinh đã ép buộc Hồ Chí Minh
phải chia đôi Việt Nam theo Vĩ tuyến 17”.
Theo ông Hoàng Tùng, ngày 3-7-1954,
sau khi đạt được thỏa thuận với Mỹ và Pháp, Chu rời Geneva về
Liễu Châu gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, thông báo với
Hồ Chí Minh ý kiến của Molotov và của ông ta, dự định chia
cắt Việt Nam thành hai miền ở Vĩ tuyến 17. Võ Nguyên Giáp và
Hồ Chí Minh nhất quyết đòi, dẫu có lùi cũng chỉ Vĩ tuyến 15
hoặc tối thiểu là 16. Một mặt, Chu Ân Lai “dọa”, Hoa Kỳ có
thể nhảy vào vòng chiến và khi đó, Liên Xô và Trung Quốc sẽ
không thể hỗ trợ cho Hồ Chí Minh. Một mặt, ông ta mềm dẻo:
“Ghi nhớ lời dặn của Hồ Chủ tịch, nhưng xin phép, tướng
ngoài biên ải được căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết
định”.
“Tướng ngoài biên ải” lúc đó là Phạm Văn
Đồng thì gần như lệ thuộc vật chất vào Chu. Những báo cáo của Phạm Văn
Đồng về cho Hồ Chí Minh đều phải sử dụng điện đài và mật
mã của Đoàn Trung Quốc.
Chia cắt đất nước không những không phải
là ý chí của nhân dân miền Nam, không phải của nhân dân Việt Nam, mà
ngay cả “Bên Thắng Cuộc” cũng chỉ ký do ép buộc. Thế nhưng, để thống
nhất trở lại, để xé chữ ký đó của mình, những người cộng sản đã tiến
hành một cuộc chiến kéo dài suốt hơn hai mươi năm sau đó.
Tháng 11-1946, khi cả Việt Minh và người
Pháp đang chuẩn bị khí giới trong đất liền, quân Tưởng Giới Thạch
đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa, và tháng 12-1946, đổ
bộ lên Itu Aba thuộc Trường Sa. Năm 1950, quân Tưởng rút khỏi
hai quần đảo này để cho Bắc Kinh tuyên bố “chủ quyền”. Sau Hiệp
định Geneva, khi Chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp
quản Hoàng Sa, hai đảo lớn nhất ở đấy đã bị “quân giải phóng
Trung Quốc” thừa cơ chiếm mất.
Tưởng và Mao có thể khác nhau về ý thức
hệ và đối đầu về quyền lực nhưng cách thu vén đất đai biển đảo cho Đại
Hán thì nhất quán. Họ luôn trục lợi được khi ném súng cho các bên.
Ngày 4-4-1972, ở Quảng Trị, khi da
thịt người Việt đang bận “tàn nhau”, Kissinger phái Winston Lord tới
New York gặp đại sứ Hoàng Hoa, nhắn Trung Quốc: “Hải quân Mỹ sẽ
được lệnh ở lại tại khoảng cách mười hai dặm kể từ quần
đảo Hoàng Sa”. Người Mỹ cần Bắc Kinh làm ngơ cho họ ném bom bằng B52
ra tới Thanh Hóa. Người Trung Quốc sử dụng cam kết miệng ấy để ngày
19-1-1974 họ cướp Hoàng Sa. Hạm đội 7 đã không có bất cứ động thái gì kể
cả cứu các quân nhân VNCH đang thoát thân bằng xuồng con giữa biển.
Nhiều trí thức VNCH thân Hà Nội đang ở Bắc Âu nhận được thông điệp,
Trung Quốc giữ Hoàng Sa hộ.
Người thân luôn luôn kể các câu chuyện
cảnh giác của Lê Duẩn với Bắc Kinh. Trên thực tế, khi Trường Chinh mất
chức Tổng bí thư, cái ghế ấy đã bị bỏ trống từ năm 1956. Trong thời gian
đó, Trung Quốc tham gia tích cực đưa Lê Duẩn ra thay.
Người lái chiếc xe Ford bốn chỗ
chở Lê Duẩn từ Sài Gòn sang Phnom Penh là một nhà tư sản
người Hoa, ông Lai Thanh. Người được phái từ Hà Nội vào
Phnom Penh chuyển lá thư của ông Phạm Hùng gửi cho ông Lê
Duẩn cũng là người Việt gốc Hoa, nữ tình báo Hồ Anh. Người
đón và đưa Lê Duẩn đi tàu từ Phnom Penh tới Hồng Kong là một cán bộ
thuộc Hoa Kiều vụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc hoạt động tại
miền Nam. Ngày 23-5-1957, phái viên Trung Quốc đã cùng với Hồ
Anh đưa Lê Duẩn từ Hong Kong về Tỉnh ủy Quảng Châu. Các nhà
lãnh đạo ở đây đón tiếp Lê Duẩn vô cùng trọng thị.
Trên đường bay trở lại Việt Nam,
những đồng chí Trung Hoa tinh tế đã lấy lý do “thời tiết xấu”,
cho dừng máy bay chở Lê Duẩn ở Nam Ninh. Tại đó, các “đồng
chí Trung Quốc” sắp xếp để Lê Duẩn có cuộc đoàn tụ cảm động
với con gái Lê Tuyết Hồng. Tuyết Hồng được Trung Quốc nuôi
ăn học ở ký túc xá Quế Lâm, cũng như sau này, người vợ miền Nam
của Lê Duẩn cũng học ở Trung Quốc và luôn được các nhà lãnh đạo Bắc Kinh
tôn trọng.
Cuộc chiến tranh của Lê Duẩn ở miền Nam cũng không bí mật gì với Bắc Kinh cả.
Bắc Kinh huỵch toẹt ra rằng, từ tháng
6-1965 đến tháng 8-1973 họ đưa sang Việt Nam tổng cộng 320.000
“quân tình nguyện” bao gồm lính phòng không, thợ máy, thông
tin, công binh… Quân số lúc đạt mức cao nhất lên tới 170.000.
Có khoảng bốn nghìn người Trung Quốc chết tại Việt Nam trong
thời gian đó.
Nhiều tài liệu chính thức cho thấy, trước
năm 1975, “phóng viên Tân Hoa Xã” đã vào tận Củ Chi và có mặt ở nhiều
chiến trường Nam Trung Bộ. Đến cả một kế hoạch tối mật của Lê Duẩn như
cuộc đảo chánh của đại tá Phạm Ngọc Thảo cũng được Bắc Kinh hậu thuẫn từ
năm 1964 bằng cách in một lượng tiền lớn, gọi là “Hàng 65”, chuyển vào
Trung ương Cục [Số tiền này được dùng để đổi ở miền Nam trong Chiến dịch
X2, 10-9-1975]. Khi Lê Duẩn chuẩn bị đánh Mậu Thân, dù rất bí mật với
Tướng Giáp, Trung Quốc cũng biết để in một lượng tiền khác chuyển vào
Nam, gọi là “Hàng 67”.
Chưa kể dày dép, súng ống, mũ cối, chỉ
riêng tiền mặt bằng dollar, Bắc Kinh cung cấp dư dả tới mức, sau ngày
30-4-1975, trong két các mặt trận còn dư tổng cộng 105 triệu USD tiền
mặt. Tiền mặt do Trung Quốc trực tiếp viện trợ, mà Hà Nội sang
nhận từng va-li, từ năm 1964-1975, lên tới 626.042.653 USD.
“Bên Thắng Cuộc” chịu ơn “sự giúp đỡ” này
và nhiều thế hệ được dạy, nhờ sự giúp đỡ “trên tinh thần quốc tế vô
sản” ấy mà có Điện Biên Phủ và “Miền Nam giải phóng”. Nhưng đấy chỉ một
tiết diện. Phải đặt vai trò của ý thức hệ trong sự chia cắt và binh đao
mới thấy, cái giá mà dân tộc ta, nhân dân ta phải trả cho các “khoản vay
quốc tế vô sản” thật là đau đớn.
Tinh thần quốc tế vô sản mà Bắc Kinh vẫn
sử dụng trước nay chỉ như một miếng bả. Cái mà họ “bẫy” được là biển
đảo, là đất đai, chưa kể những cuộc chia chác quốc tế trên máu xương
người Việt. Kể từ Hội nghị Thành Đô, khi Bắc Kinh từ chối dùng “giải
pháp đỏ” lẽ ra Hà Nội phải thấy họ không còn là cộng sản.
Có thể chỉ là ngẫu nhiên khi Covid-19 đến
từ Trung Quốc khiến Việt Nam phải cách li cho tới sát ngày 30-4. Nhưng,
thay vì ầm ĩ kỷ niệm 45 năm, “cách li tại nhà” nên là cơ hội để coi lại
các bài học, thừa nhận trách nhiệm, nhìn nhận vai trò pháp lý của người
anh em miền Nam trong việc xác lập chủ quyền với Hoàng Sa. Dũng cảm coi
Công văn 1958 của Phạm Văn Đồng là vô giá trị. Chưa bao giờ là quá trễ
để suy ngẫm về “quốc tế vô sản” mà nhận thấy, Trung Quốc chưa từng là
bạn và vĩnh viễn chỉ là một quốc gia vận hành bằng các âm mưu Đại Hán.