FreeLancer- Chuyên Nghiệp và Hiệu Quả : ÂM NHẠC -->

Sade

No Comments

Sade là một giọng ca nữ mình khá thích nghe hồi nhỏ.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn bài viết về cô của FaceBooker Huỳnh Duy Lộc 

Cám ơn anh nhiều khi cung cấp cho cộng đồng nghe nhạc một bài viết rất chi tiết, sâu sắc.

Sade và “Smooth operator”

Sade Adu tên thật là Helen Folasade Adu, sinh năm 1959 tại Ibadan (Nigeria), cha là một giáo sư đại học dạy môn kinh tế học đến từ Nigeria, mẹ là một nữ điều dưỡng người Anh. Cha mẹ cô đã gặp nhau tại London, kết hôn với nhau rồi trở về Nigeria. Năm cô 4 tuổi, cha mẹ cô ly dị và mẹ cô trở về Anh nên những năm tháng tuổi thơ, cô và một người em trai đã sống với mẹ tại Colchester, Essex. Năm 17 tuổi, cô theo học khoa thiết kế và thời trang trong 3 năm tại Central St. Martin’s College of Art and Design ở London. Sau khi tốt nghiệp, cô làm công việc thiết kế trang phục cho nam giới và làm người mẫu bán thời gian rồi đến với âm nhạc một cách hết sức tình cờ khi được mời làm ca sĩ hát chính một thời gian cho nhóm nhạc funk Arriva của những người bạn.
Về sau, cô hát với nhóm nhạc Pride, đi lưu diễn khắp nước Anh từ năm 1981 đến năm 1984. Vào thời gian này, ca khúc “Smooth operator” cô viết chung với Ray Saint John, một trong 7 thành viên của Pride, đã khiến các hãng dĩa chú ý và muốn ký hợp đồng với cô. Thoạt đầu cô đã từ chối mọi lời đề nghị vì hãng nào cũng chỉ muốn ký hợp đồng với một mình cô chứ không phải với tất cả các thành viên của nhóm nhạc. Cuối cùng, cô đã ký hợp đồng với Epic Records vì hãng dĩa này đồng ý cho cô dẫn theo 3 thành viên của nhóm nhạc Pride. Nhóm nhạc Sade với 4 thành viên (Sade, Paul Anthony Cook, Paul Denman và Stuart Matthewman) đã hình thành từ đó và album nhạc đầu tay "Diamond life” đã thành công rực rỡ. Sau “Diamond life”, một loạt album nhạc cũng rất thành công nối tiếp nhau ra mắt: “Promise” ra mắt năm 1985 chiếm hạng nhất trên bảng xếp hạng album nhạc tại Anh và Billboard 200 tại Mỹ (bán được 4 triệu dĩa tại Mỹ), được quảng bá bằng một chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, “Stronger Than Pride” ra mắt năm 1988 cũng được quảng bá bằng một chuyến lưu diễn qua nhiều nước, “Love Deluxe” ra mắt năm 1992, “Lovers Rock” ra mắt năm 2000. Sau album “Lovers Rock”, nhóm nhạc Sade ngưng hoạt động suốt 10 năm vì Sade nghỉ hát để sinh con và nuôi con. “Soldier of Love”, album thứ 6 của Sade, ra mắt năm 2010 khi Sade Adu trở lại với hoạt động ca hát, mang lại thêm một giải Grammy nữa.

Về ABBA

No Comments

ABBA (19721983) là một ban nhạc pop Thụy Điển. Tên của ban nhạc do tập hợp các chữ đầu tên của bốn thành viên tạo thành: Anni-Frid Lyngstad, Björn Ulvaeus, Benny AnderssonAgnetha Fältskog. ABBA là một trong những ban nhạc thành công nhất trong lịch sử âm nhạc. Tính đến nay, ABBA đã tiêu thụ được gần 370 triệu đĩa và mỗi năm họ tiêu thụ được từ 2 đến 4 triệu đĩa.


  • Benny Andersson (1946) là cựu thành viên của ban nhạc rất nổi tiếng ở Thụy Điển The Hep Stars. Ban nhạc được coi như là The Swedish Beatles. Ông lập gia đình với Anni-Frid Lyngstad vào năm 1979. Ông là người sáng tác các bài hát cho ban nhạc ABBA.

Nguồn gốc bí ẩn của nhạc jazz

No Comments

Đó là mốc lịch sử quan trọng nhưng ở đó cũng có nhiều vấn đề rắc rối mà nó ám ảnh nhạc jazz và các nhạc pop nói chung kể từ đó. Giống như cuộc tranh luận về những người da trắng bắt chước nhạc của người da đen và nhận nó là của mình. Khi bài Livery Stable Blues được ghi âm, ban nhạc toàn người da trắng đã đạo nhạc của người Mỹ da đen vùng New Orleans. Chúng ta đã biết vụ kiện về ai viết bài Stairway to Heaven hoặc có để Marvin Gaye là đồng tác giả bài Blurred Lines. Nhiều người thay vì mua bản ghi âm bài Livery Stable Blues, bán rất chạy, đã mua các tờ nhạc rời cũng vì cuộc chiến về quyền sở hữu. Chúng ta đều đã nghe các lập luận, thường là của bậc cha mẹ lo cho cái, về cái gì quyết định thị hiếu hoặc kết quả thẩm mỹ trong nhạc pop. Thẩm phán chủ trì vụ kiện về ai sáng tác bài Livery Stable Blues cuối cùng đã phán quyết là do bài hát này không hay và những người soạn ra nó thực tế không đọc được và viết được một tờ nhạc rời nên nó được trả về "lĩnh vực công cộng" và nó không thuộc về người sáng tác nào hết.
Hơn các thể loại nhạc pop khác, nhạc jazz đặc biệt có đầy rẫy những kiểu tranh luận như trên, nhưng những lập luận sôi động nhất trong giới hâm mộ lại còn cơ bản hơn nữa, đó là nhạc gì được gọi là jazz? Nhạc jazz có những thành phần chính không? Cho đến nay các câu trả lời vẫn chưa rõ ràng, nhưng câu chuyện về bài Livery Stable Blues cho thấy các câu hỏi về thể loại nhạc này có từ lâu lắm rồi.


"Jazz" được nêu tên trong quyển "Word of the 20th Century" của công ty American Dialect, từ này đặc biệt vì người ta không biết nó từ đâu ra. Nét đặc trưng của nhạc jazz là nó nhanh và đầy sinh lực. Từ những năm 1860 có một từ lóng của người Mỹ da đen 'jasm' nghĩa là 'sinh lực'. Ngày 14/11/1916 báo New Orleans Times-Picayune lần đầu tiên nói về "ban nhạc jas". Chữ "jas" có thể lấy từ "jasm" nói trên. Hoặc cũng có thể lấy từ hương thơm "jasmine" (hoa nhài) mà gái mại dâm ở New Orleans hay dùng, nhạc jazz một phần được sử dụng ở các nhà chứa. Người tiên phong nhạc jazz Jelly Roll Morton là người đầu tiên sáng tạo cách chơi piano riêng biệt tại những nơi này, và ông nhận tiền 'boa' để quan sát (qua khe cửa) và chơi đàn phục vụ vào lúc gái mại dâm và khách hàng đang hoan lạc.Ban nhạc jazz Original Dixieland Jass cho biết bí mật về nguồn gốc từ "jazz". Cũng như "jas", từ "jass" có thể có nghĩa tiềm ẩn về tình dục vì nó nghĩa là mông đàn bà. Nhạc sĩ Eubie Blake có trả lời phỏng vấn của National Public Radio trước khi ông mất năm 1983 là "Khi bắt gái ở Broadway, người ta gọi là JAZZ, nhưng xa xưa gọi là JASS. Đó là từ tục, nếu bạn biết nó là gì bạn không dám nói trước mặt phụ nữ." Hoặc có thể khi ban nhạc chuyển từ New Orleans về New York, bọn tinh nghịch hay xóa chữ "J" trên áp-phích (sẽ thành chữ "ass" là đít) làm lãnh đạo ban nhạc ngán ngẩm. Vài tháng sau lầm ghi âm bài Livery Stable Blues, ban nhạc đã đổi tên vĩnh viễn thành Original Dixieland Jazz Band.
Bài Livery Stable Blues cũng giúp trả lời câu hỏi "Nhạc jazz là gì?" bằng cách nêu gốc gác của nó. Nó được cấu trúc khoảng 3 hợp âm và thành 12 nhịp như hầu hết tất cả các bài blue bắt nguồn từ truyền thống người Mỹ da đen. Những âm thanh thô của nó liên kết với bài hát trong lao động mà người nông dân da đen hát. Nhịp habanera của nó thể hiện ảnh hưởng của các giai điệu Ca Ri Bê đối với nhạc New Orleans (đầu thế kỷ 20 mỗi ngày có nhiều phà từ Havana tới New Orleans). Sự lập đi lập lại của nó thể hiện truyền thống gọi và đáp lại của nhà thờ tin lành da đen. Các kèn clarinet, cornet và trombone thể hiện ảnh hưởng của nhạc hành khúc được ưa thích vô cùng ở New Orleans trong và sau Nội Chiến và dẫn tới việc dùng nhiều các nhạc cụ kèn đồng và sáo gỗ. Piano xuất hiện cùng truyền thống của nhạc "ragtime" là thể loại nhạc xuất hiện trước khi có jazz. Và đầu óc khôi hài của nó là từ nghệ thuật hát rong, truyền thống bắt chước một cách hài hước opera và operetta và chế riễu một cách vô cảm về sự chia rẽ da trắng và da đen. Nghệ thuật hát rong thường có nét đặc biệt là các nhạc sĩ da tắng bôi đen mặt để nêu hình ảnh khôi hài của chính mình là đen thì sẽ thế nào, và nó đã là hình thức nhạc được ưa thích nhất từ 1840 đến 1920. Nhưng trong khi nghệ thuật hát rong có việc người da trắng nhại đùa theo ý kiến người da đen thì nhiều nhạc sĩ da trắng khác, như những người trong ban nhạc Original Dixieland Jass Band, lại chọn cách lặp lại truyền thống nhạc của người da đen một cách bừa ẩu.

Chất DNA nhạc trong bài Livery Stable Blues là từ nghệ sĩ da đen và cho thấy là nhạc jazz cơ bản là nhạc Mỹ da đen, ngay cả nếu một ban nhạc toàn người da trắng thu âm nó đầu tiên. Sự hòa trộn đặc biệt của nhịp trống Châu Phi và tiết tấu Ca Ri Bê ở trong bài này dẫn ta tới thời kỳ từ 1817 đến 1843, khi mà nô lệ da đen (từ Châu Phi, Ca Ri Bê, Nam Mỹ) tới tụ tập vào chủ nhật ở quảng trường Congo của New Orleans để chơi nhạc và hòa nhập truyền thống. Những người lai giữa trắng và đen ở New Orleans có văn hoá giống với Châu Âu hơn là Châu Phi. Sau khi có luật Jim Crow 1890 người lai trăng-đen được xếp hạng là "da đen", và họ chỉ được chơi nhạc với người da đen và điều này dẫn tới sự thông hiểu hơn và tăng kỹ năng hơn cho nhạc da đen bởi những người lai này được đào tạo về nhạc cổ điển. Nhạc jazz xuất hiện từ sự hòa trộn của các thể loại.
Nhưng còn về ai là người đã sáng tạo ra nhạc jazz, nếu có thể gán cho một người, thì đây là vấn đề khó. Một số cho rằng Elvis Presley hoặc Chuck Berry sáng tạo ra rock n' roll, số khác lại cho rằng DJ Kool Herc hoặc Grandmaster Flash sáng tạo ra hip hop. Nick La Rocca, người chơi kèn cornet và soạn nhạc của ban Original Dixieland Jass Band nhận là đã sáng tạo ra jazz, mặc dù Buddy Bolden cũng nói thế, hoặc ngay cả nghệ sĩ lai đen Morton (chắc chắn là người đầu tiên viết nhạc jazz) cũng luôn nói ông sáng tạo ra jazz. Như nhà viết sử nhạc jazz Gary Giddins nói, "LaRocca trở thành người phân biệt chủng tộc và tuyên bố ghê rợn là người da trắng sáng tạo ra jazz, thật là kẻ bảo thủ vùng phương Nam." Louis Armstrong thì nhân đức hơn trong quyển "Swing That Music" năm 1936 khi gọi Original Dixieland Jass Band là "dàn nhạc jazz lớn đầu tiên" và rằng LaRocca "đã soạn nhạc cho đạo cụ khác đi so với trước làm cho các bài hát cũ nghe tưởng như là mới." nhưng những thông báo sau này của LaRocca đi theo truyền thống lâu dài của các nghệ sĩ da trắng Mỹ phụ thuộc vào văn hoá người da đen công khai vùi dập nó nhằm biện minh cho việc khai thác nó.

Không phải chỉ có chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và việc chiếm đoạt văn hoá làm cho những người hâm mộ nhạc jazz khó chịu với ban Original Dixieland Jass Band, mà là cả cái sở thích ngu ngốc ở trong đó: đó là những bình luận khích động của LaRocca và cả sự ngốc nghếch bắt chước tiếng kêu động vật khi biểu diễn, kỹ thuật chơi kém trong sự kết hợp âm thanh của họ với nghệ thuật hát rong. Nhưng những tiếng nói lớn nhất mà họ tuyên bố 'đây không phải là jazz' đối với một ban nhạc hoặc một âm điệu nào đó thì thường là của những người bị nhạc jazz ám ảnh phân tách chi ly âm nhạc mà chỉ những người say đắm jazz mới quan tâm. Đây là cuộc nội chiến.
Tuy nhiên nhạc jazz bị tấn công như là một thí dụ của sở thích ngốc nghêch (giống như nhạc rock n' roll và hip hop bị sau đó) bởi những người không hiểu tý gì về nhạc. Tờ The New York Times đã liên tục đăng các bài xã luận từ cuối những năm 1910 và những năm 1920 rêu rao cái nguy hiểm của jazz vì nhạc này liên quan đến nhà chứa; chỉ vài tháng sau khi bản Livery Stable Blues được ghi âm thành công, thì quận đèn đỏ Storyville, trước được các lãnh đạo thành phố New Orleans tha thứ, bị đóng cửa hoàn toàn. Và Edward Baxter Perry viết trong tạp chí nhạc được ưa thích The Etude là nhạc ragtime, (mà ông cũng xếp vào loại jazz như bài Livery Stable Blues và bài Tiger Rag), "là sự loạn đảo phách. Và những nạn nhân của nó theo ông chỉ khỏi được khi điều trị như chó dại bằng liều tiêm chì. Đây chỉ là một giai đoạn thoáng qua trong nền văn hoá nghệ thuật sa sút của chúng ta, hay là một bệnh lây nhiễm đã tới, thí dụ như bệnh hủi, thì chỉ có thời gian mới trả lời được."
Những sự tấn công vào jazz từ bên trong và bên ngoài vẫn diễn ra lúc này. Ngay cả phim La la Land cũng đề cập đến việc này, với Mia, người với biết nhạc jazz, do Emma Stone thủ vai, nói "em ghét jazz", trong khi nhạc sĩ piano Seb, do Ryan Gosling thủ vai, cứ lải nhải về cái gì là jazz và cái gì không là jazz, và jazz có tương lai không, "nó là xung đột và nó là sự thỏa hiệp, nó liên tục mới, và nó đang chết dần."

Trong chuyến đi 100 năm, từ bài Livery Stable Blues cho tới La La Land, nhạc này đã thay đổi khủng khiếp, nhưng sự bàn luận thì vẫn thế. Có lẽ đã đến lúc không bàn nữa và bắt đầu nghe đi.


Bài tiếng Anh trên BBC Culture

Bây giờ mời bạn nghe bản Livery Stable Blues :



Thân mến ! 

Equalizer là gì ?

No Comments


[Stereo Wiki] Equaliser là gì và công dụng của nó


Chào Bạn ! 
Bạn có thể đọc bài viết Equalizer này của mình trước khi coi bài viết mình sưu tầm dưới nhé ! 
Thanks A Lot !  

Equalizer (hay gọi tắt là EQ) được coi như một trong những tính năng hoặc thiết bị phổ biến, cơ bản nhất khi nói về âm thanh, thường xuất hiện trên máy tính, máy nghe nhạc, mixer hay các bộ dàn karaoke...
Equalizer là một thiết bị có thể thay đổi, bù trừ tín hiệu âm thanh đi qua, theo nguyên lý tăng hoặc giảm tín hiệu của từng dải tần. Ví dụ như 1 bản nhạc với nhiều nhạc cụ nếu được cắt bỏ tần số thừa thải và nâng những phần cần thiết thì sẽ tạo được cảm giác hòa quyện với nhau, trong trẻo và sạch sẽ. Còn không thì bản nhạc có thể bị các vấn đề như: tiếng bị đục (do các âm thanh rác chồng lên nhau gây ồn/ xung đột làm giảm chất lượng), overload/clip (quá tải, tiếng bị vỡ)...

Soprano

No Comments

Chào Bạn !
Bài này mình sưu tầm cách đây đúng 10 năm.
Thân mời bạn xem nhé !

SOPRANO
Category: Âm nhạc, Tag: Lời nói
04/29/2009 05:09 pm
(VTC News) - Lan Anh - một trong những giọng soprano (nữ cao) xuất sắc hiện nay vừa cho ra mắt album thứ hai mang tên Hãy yêu nhau đi theo phong cách semi classic.


Được đánh giá cao về chất giọng và khả năng thanh nhạc thiên bẩm, Lan Anh đã giành được nhiều giải thưởng quý trong sự nghiệp ca hát của mình với những ca khúc trong sáng, bay bổng của dòng ca khúc cách mạng như: Bóng cây Kơ nia, Bài ca hy vọng, Tiếng đàn Ta Lư... và những aria, ca khúc nghệ thuật kinh điển thế giới. Ngoài ra, cô còn tham gia nhiều chương trình biểu diễn nghệ thuật lớn trong nước và quốc tế như Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Nga...
Hãy yêu nhau đi là album thứ hai Lan Anh thực hiện sau khi phát hành thành công album gồm 12 ca khúc trữ tình cách mạng mang tên “Bài ca hy vọng”. 



Lan Anh cho biết mong muốn lớn nhất của cô là có một ấn phẩm âm nhạc mang tính nghệ thuật cao nên không tiếc thời gian, tâm huyết và tiền bạc để thực hiện. Quá trình thu thanh và master (làm đĩa gốc) mất hơn 9 tháng, thời gian ghi hình và hậu kỳ hơn 5 tháng. Tổng số tiền đầu tư lên tới hơn 700 triệu đồng – một con số gây tò mò.
Muốn có sự thay đổi, Lan Anh tạm dừng những đề tài, ca khúc đã quá quen thuộc vốn đã gắn với tên tuổi của cô để hướng tới những đề tài mới. Đó là chủ đề lãng mạn của tình yêu.